Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất Danh_sách_lớp_tàu_ngầm_của_Hải_quân_Hoa_Kỳ

Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất
Tên lớpSố lượngCon tàu đầu tiên được đặt lườnCon tàu cuối cùng được đưa vào hoạt độngGhi chú
Alligator[1]118611862Tàu ngầm đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ. Được chế tạo để bảo vệ các đoàn tàu gỗ khỏi tàu chiến bọc thép.
Holland[2][3]1189619005 chiếc được đóng; duy nhất tàu Holland (SS-1) được đưa vào biên chế trong Hải quân Hoa Kỳ và được coi là tàu ngầm đầu tiên được đặt hàng và chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ.
Plunger[4][5][6]719001903Được đổi tên thành lớp A vào tháng 11 năm 1911, sau khi Hải quân ngừng việc đặt tên cho tàu ngầm. Là phiên bản cải tiến và mạnh mẽ hơn lớp Holland.
B[7][8][9][10]319051907Tên gốc của lớp là Viper, lớp tàu cuối cùng có thiết kế giống lớp Holland.
C[11]519051910Được thiết kế bởi Lawrence York Spear, một sĩ quan Hải quân Hoa Kỳ. Tên gốc của lớp là Octopus.
D[12]319081910Tên gốc của lớp là Narwhal. Được thiết kế với với khoang sinh tồn cho thủy thủ đoàn trong trường hợp bị ngập.
E[13]219091912Lớp tàu ngầm đầu tiên chạy bằng động cơ diesel của Hải quân Hoa Kỳ
F[14]419091913.
G[15][16][17][18]419091914
H[19][20]9191119183 chiếc được đặt hàng bởi Hải quân Hoa Kỳ. 17 chiếc được đặt hàng bởi Hải quân Đế quốc Nga, 11 chiếc được giao. 6 chiếc còn lại được Hải quân Hoa Kỳ mua lại.
K[21][22]8191219124 tàu ngầm của lớp, K-1 (SS-32), K-2 (SS-33), K-5 (SS-36), K-6 (SS-37) là những tàu ngầm Mỹ đầu tiên tham chiến tại Chiến tranh thế giới thứ nhất.
L[23]1119141918Lớp tàu ngầm đầu tiên được lắp đặt pháo trên boong tàu. Được thiết kế cho nhiệm vụ tuần tra, bảo vệ bờ biển.
M-1[24]119141918Có thiết kế khoang kép và lớn hơn lớp K khoảng 20%.
N[25]719151918Thiết kế cho nhiệm vụ tuần tra bờ biển
O[26][27]1619161918Mỗi chiếc có giá khoảng $550,000. Có động cơ diesel mạnh mẽ và thủy thủ đoàn có giường nằm và tủ đồ riêng. Các tàu từ O-11 tới O-16 là phiên bản cải tiến.
AA-1[28]319161922Được đổi tên thành lớp T. Được thiết kế để với tầm hoạt động 5.540 dặm (8.920 km) ở vận tốc 14 hải lý trên giờ (7,2 m/s), nhưng chỉ đạt 3.000 dặm (4.800 km) ở 11 hải lý trên giờ (5,7 m/s). Thiết kế "tàu ngầm chủ lực" đầu tiên - có thể di chuyển đủ nhanh (21 hải lý trên giờ (11 m/s)) với các thiết giáp hạm. Lớp gấp đôi so với các lớp trước đó. Thiết kế động cơ kém hiệu quả khiến các tàu nhanh chóng bị loại biên chế vào năm 1923 và bị tháo dỡ vào năm 1930.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Danh_sách_lớp_tàu_ngầm_của_Hải_quân_Hoa_Kỳ http://www.militaryfactory.com/ships/detail.asp?sh... http://www.history.navy.mil/danfs/ http://www.history.navy.mil/danfs/b1/b-1.htm http://www.history.navy.mil/danfs/b1/b-3.htm http://www.history.navy.mil/danfs/g1/g-1.htm http://www.history.navy.mil/danfs/g1/g-4.htm http://www.history.navy.mil/danfs/h1/h-9.htm http://www.history.navy.mil/danfs/r1/r-20.htm http://www.history.navy.mil/photos/sh-usn/usnsh-h/... http://www.history.navy.mil/photos/sh-usn/usnsh-k/...